Đái tháo đường sơ sinh là gì? Các công bố khoa học về Đái tháo đường sơ sinh

Đái tháo đường sơ sinh là một tình trạng mà một em bé mới sinh có mức đường huyết cao. Đây là tình trạng hiếm gặp và thường xảy ra khi em bé có một cơ chế tự độ...

Đái tháo đường sơ sinh là một tình trạng mà một em bé mới sinh có mức đường huyết cao. Đây là tình trạng hiếm gặp và thường xảy ra khi em bé có một cơ chế tự động tổ chức để sản xuất insulin sau khi sinh, do đó gây tăng đường huyết.
Đái tháo đường sơ sinh, còn được gọi là đái tháo đường sinh non hoặc tăng đường huyết do sinh non, là một trạng thái tăng đáng kể mức đường huyết ở trẻ sơ sinh, thường xảy ra trong 24-48 giờ đầu sau khi sinh. Đái tháo đường sơ sinh thường được chẩn đoán khi mức đường huyết trên 2.6 mmol/L (47 mg/dL).

Nguyên nhân chính của đái tháo đường sơ sinh là do hệ thống sản xuất, tiết insulin của trẻ sơ sinh chưa phát triển đầy đủ. Khi mẹ mang thai, đường huyết qua nhau thai ở một mức tương đối cao, điều này kích thích tuyến tụy thai sản xuất lượng càng lớn insulin. Tuy nhiên, sau khi sinh, mức đường huyết của trẻ giảm đáng kể, làm giảm sự kích thích sản xuất insulin trong tuyến tụy. Điều này gây ra một tình trạng tạm thời, gọi là đái tháo đường sơ sinh. Thường thì tình trạng này tự giải quyết sau một vài ngày, khi hệ thống sản xuất insulin của trẻ phát triển đủ để điều chỉnh mức đường huyết.

Tuy nhiên, ở một số trẻ, hệ thống sản xuất insulin không hoạt động hoặc không phát triển đúng cách, dẫn đến tình trạng đái tháo đường sơ sinh trở nên nghiêm trọng hơn. Trẻ bị đái tháo đường sơ sinh có thể có các triệu chứng như tăng cân nặng nhanh, sản sinh lượng nước tiểu lớn, tất cả là do đáng kể tăng lượng đường trong cơ thể. Đái tháo đường sơ sinh nghiêm trọng có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm màng não, sự giảm nồng độ canxi trong máu, và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ.

Để chẩn đoán đái tháo đường sơ sinh, các bác sĩ thường thực hiện xét nghiệm đường huyết định kì và giám sát chặt chẽ các dấu hiệu của trẻ. Điều trị đái tháo đường sơ sinh thường bao gồm việc tăng cường việc theo dõi mức đường huyết, cung cấp đủ dưỡng chất và insulin cho trẻ nếu cần.

Nếu bạn cho rằng trẻ của mình có thể bị đái tháo đường sơ sinh, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn và điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đái tháo đường sơ sinh":

NHẬN XÉT MỐI LIÊN QUAN GIỮA CHỈ SỐ HÓA SINH MÁU VỚI MICROALBUMIN NƯỚC TIỂU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP II TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nhận xét mối liên quan  chỉ số microalbumin nước tiểu với chỉ số hóa sinh máu ở bệnh nhân đái tháo đường typ II. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 210 bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình. Kết quả: tỷ lệ BN có microalbumin niệu (MAU) (+) 18,1%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa biến chứng thận với các mức độ kiểm soát HbA1c, Glucose (p < 0,05). Thời gian phát hiện ĐTĐ càng dài, không tuân thủ điều trị tỷ lệ xuất hiện biến chứng thận càng tăng. Kết luận: tỷ lệ BN ĐTĐ týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình có biến chứng thận 18,1%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa biến chứng thận với mức độ kiểm soát HbA1c, Glucose.
#Microalbumin niệu #Đái tháo đường týp 2
KẾT QUẢ KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU Ở TRẺ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Kiểm soát glucose máu (KSGM) ở mức tối ưu là mục tiêu cơ bản để điều trị và quản lý bệnh đái tháo đường. KSGM tốt cho trẻ mắc đái tháo đường sơ sinh (ĐTĐSS) giúp trẻ ngăn ngừa các biến chứng. Mục tiêu: Nhận xét kết quả KSGM ở trẻ ĐTĐSS tại bệnh viện Nhi Trung ương. Phương pháp: mô tả một loạt ca bệnh. Kết quả: 94,1% bệnh nhân đột biến ABCC8/KCNJ11 đạt mức KSGM tốt khi điều trị bằng SU, 1 bệnh nhân chưa phát hiện gen đột biến được điều trị với SU có mức KSGM ban đầu tốt, khi chuyển đổi sang insulin có mức glucose máu tốt nhưng HbA1c kém. Khi điều trị bằng insulin có 37,5% (dựa vào HbA1c), 25% (dựa vào glucose máu) bệnh nhân có đột biến gen khác đạt mục tiêu KSGM. 2/7 bệnh nhân không có đột biến gen đã được dừng thuốc nhưng phải tái sử dụng insulin trong những đợt nhiễm trùng cấp. 100% bệnh nhân có bất thường 6q24 được KSGM tốt trước khi dừng thuốc, chưa có bệnh nhân nào tái phát. Không bệnh nhân nào hạ glucose máu nặng, hạ glucose máu không triệu chứng gặp chủ yếu ở nhóm điều trị bằng insulin.
#đái tháo đường sơ sinh #kiểm soát glucose máu #insulin #sulfonylurea
Kết quả điều trị Sulfonylureas ở bệnh nhân đái đường sơ sinh do đột biến gen KCNJ11 và ABCC8
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 215-219 - 2014
Đái tháo đường sơ sinh (ĐTĐSS) là tình trạng tăng glucose máu trong 6 tháng đầu sau đẻ. Nguyên nhân chủ yếu do đột biến gen KCNJ11 và ABCC8. Mục tiêu: phát hiện đột biến gen KCNJ11 và ABCC8 ở bệnh nhân ĐTĐSS và đánh giá kết quả điều trị bằng sulfonylurea uống trên 11 bệnh nhân ĐTĐSS đang điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương, được phân tích gen KCNJ11 và ABCC8. Đây là nghiên cứu mô tả một loạt ca bệnh: thu thập các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng. ADN được chiết tách từ bạch cầu lympho máu ngoại vi, sử dụng kỹ thuật PCR để nhân đoạn gen, giải trình tự gen KCNJ11 và ABCC8. Kết quả thu được 6 bệnh nhân đột biến KCNJ11, 5 bệnh nhân đột biến ABCC8; Trong đó 9/11 đáp ứng với điều trị sulfonylurea, không phải tiêm insulin, 1 đang trong quá trình chuyển đổi, 1 mang đột biến mới đang tiêm insulin.Từ đó, chúng tôi nhận thấy việc xác định gen gây bệnh trong ĐTĐSS có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp điều trị và tiên lượng bệnh.
#đái tháo đường sơ sinh #đột biến gen ABCC8 #đột biến gen KCNJ1
Nhận xét sự thay đổi đường máu và phương thức điều trị kiểm soát đường máu ở bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ có chỉ định điều trị corticoid trước sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 2 - Trang 63 – 69 - 2017
Đặt vấn đề: Sự thay đổi đường máu và phương thức điều trị kiểm soát đường máu ở bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ có chỉ định điều trị corticoid trước sinh để dự phòng hội chứng suy hô hấp sơ sinh chưa được nghiên cứu nhiều trên thế giới và tại Việt Nam. Mục tiêu: 1- Tìm hiểu sự thay đổi giá trị đường máu ở bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ sau tiêm corticoid trước sinh; 2-Tìm hiểu sự thay đổi phương thức điều trị kiểm soát đường máu ở các bệnh nhân này. Đối tượng và phương pháp: 1-Đối tượng: 50 bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ có chỉ định điều trị corticoid trước sinh. 2-Phương pháp: mô tả tiến cứu theo dõi dọc. Kết quả: 1-Sự thay đổi đường máu sau tiêm corticoid trước sinh trong vòng 7 ngày theo dõi: tỷ lệ bệnh nhân có các giá trị glucose máu không đạt mục tiêu: glucose máu trước ăn > 5,3 mmol/l tăng cao ở trên 80% thai phụ ở ngày 2 và ngày 3 và tiếp tục tăng ở trên 45% số thai phụ đến ngày thứ 7, glucose máu sau ăn 2 giờ > 6,7 mmol/l ở 77,4% đến 82,2% số thai phụ ở ngày 1 đến ngày 3 và tiếp tục tăng ở mức trên 51% thai phụ ở ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 ; mức dao động glucose máu là 0.75 – 1.79 mmol/l; tỷ lệ hạ glucose máu 0.74%; 2- Sau tiêm corticoid số BN phải tiêm insulin tăng cao, 52% BN phải tăng ít nhất gấp 2 lần liều insulin so với trước tiêm corticoid, liều insulin tăng cao nhất vào ngày thứ 3; có mối tương quan tuyến tính giữa tổng liều insulin và giá trị HbA1c khi nhập viện. Kết luận: 1-Các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ sau tiêm corticoid trước sinh sẽ có sự gia tăng glucose máu cả trước và sau ăn, đặc biệt ngày thứ 2, 3 và giảm dần cho đến ngày thứ 7 sau dùng corticoid với mức dao động đường máu từ 0.75 – 1.79mmol/l; 2- Hầu hết các bệnh nhân bị đái tháo đường thai kỳ sau tiêm corticoid trước sinh đều cần điều trị insulin hoặc tăng ít nhất gấp đôi liều insulin đã cho để kiểm soát glucose máu, các bệnh nhân có HbA1c khi nhập viện càng cao sẽ có tổng liều tiêm insulin trong 1 ngày càng cao.  
#đái tháo đường thai kỳ #corticoid trước sinh
ỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ HS-CRP VỚI MỘT SỐ CHỈ SỐ XÉT NGHIỆM HÓA SINH LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mở đầu: Tình trạng viêm kéo dài gây nên các biến chứng mạch máu trong bệnh đái tháo đường. Nếu không được kiểm soát và điều trị kịp thời bệnh nhân có thể tàn phế, tử vong. Xét nghiệm hs-CRP máu như một chỉ dấu sinh học hữu ích của tình trạng viêm mạch mạn tính, nhằm hỗ trợ chẩn đoán, theo dõi điều trị và phát hiện biến chứng một cách hiệu quả cho bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ hs-CRP máu với các chỉ số xét nghiệm hóa sinh (glucose máu đói, HbA1c, lipid máu) trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Đối tượng: 238 người chia 2 nhóm: Nhóm bệnh gồm 118 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 và nhóm chứng gồm 120 người bình thường khỏe mạnh, có độ tuổi và giới tính tương đương với nhóm bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng. Bệnh nhân được khám lâm sàng, khai thác tiền sử, bệnh sử, lấy máu tĩnh mạch lúc đói định lượng nồng độ hs-CRP, glucose, HbA1c, cholesterol toàn phần, LDL-C, HDL-C và triglyceride. Chẩn đoán đái tháo đường typ 2 theo tiêu chuẩn của ADA 2020. Kết quả: Nồng độ trung bình hs-CRP máu (mg/L) của nhóm bệnh và nhóm chứng lần lượt là 3,9 ± 1,7 so với 1,7 ± 1,1mg/L (p<0.001). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Bệnh nhân có nồng độ hs-CRP ở các mức độ nguy cơ cao và nguy cơ trung bình đối với bệnh tiểu đường typ 2 rất phổ biến (99,2%). Trong đó, tỷ lệ phần trăm bệnh nhân ở các mức cao, trung bình và thấp lần lượt là 72,9; 26,3 và 0,8. Nồng độ hs-CRP máu tương quan thuận với glucose, HbA1c, cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride, tương quan nghịch với HDL-C.  Kết luận: Nồng độ trung bình hs-CRP máu của người mắc đái tháo đường typ 2 cao hơn người không mắc đái tháo đường typ 2. Có mối tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê giữa hs-CRP với glucose, HbA1c, cholesterol toàn phần, LDL-C và triglyceride, tương quan nghịch với HDL-C.
#hs-CRP #đái tháo đường typ 2
Đánh giá rối loạn glucose máu sau sinh và một số yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường thai kỳ
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ đái tháo đường và mối liên quan giữa một số yếu tố với nguy cơ đái tháo đường sau sinh 6 tuần ở người bệnh đái tháo đường thai kì.          Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang, theo dõi dọc đến 6 tuần sau sinh trên 93 thai phụ đái tháo đường thai kỳ. Chẩn đoán đái tháo đường sau sinh dựa trên kết quả của nghiệm pháp dung nạp glucose (NPDNG) 75 gam uống. Kết quả: Tỷ lệ đái tháo đường týp 2 sau sinh 6 tuần là 11,8%, tiền đái tháo đường 47,3%, glucose máu bình thường 40,9%.    Thừa cân/béo phì trước mang thai làm tăng 8,27 lần nguy cơ đái tháo đường sau sinh 6 tuần (95%CI: 1,9-34,1; p<0,05) so với mức BMI bình thường.         BMI trước thai BMI trước thai ở ngưỡng 22,2kg/m2 có giá trị dự báo đái tháo đường sau sinh với độ nhạy (90,9%), độ đặc hiệu (70,7%), AUC = 0,803 (p=0,002). BMI trước thai ≥ 22,2kg/m2 làm tăng nguy cơ đái tháo đường sau sinh 6,95 lần (p<0,01). BMI lúc chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ ≥ 25,2kg/m2 làm tăng 5,21 lần nguy cơ đái tháo đường sau sinh (p<0,05).       Kết luận: Tỷ lệ đái tháo đường típ 2 sau sinh 6 tuần 11,8%; tiền đái tháo đường 47,3%; glucose máu bình thường 40,9%. Thừa cân/béo phì trước mang thai làm tăng nguy cơ đái tháo đường típ 2 sau sinh. BMI trước mang thai ở ngưỡng 22,2kg/m2 có giá trị dự báo ĐTĐ típ 2 sau sinh 6 tuần với độ nhạy và đặc hiệu cao nhất.
#Tỷ lệ đái tháo đường sau sinh #đái tháo đường thai kỳ
Đột biến dị hợp tử trội C.991T>T của gen KCNJ11 gây các kiểu hình khác nhau của đái tháo đường
Đột biến kích hoạt gen KCNJ11 mã hóa cho tiểu đơn vị Kir6.2 đã được biết gây bệnh đái tháo đường sơ sinh. Điều trị bằng thuốc uống sulfonylurea thay thế cho tiêm insulin ngoại sinh giúp cải thiện glucose máu ở hầu hết những bệnh nhân mang đột biến của gen này. Việc xác định đột biến gen ở những bệnh nhân đái tháo đường xuất hiện trước 6 tháng tuổi không chỉ có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp cho bệnh nhân mà còn giúp xác định bệnh đái tháo đường di truyền đơn gen. Trong nghiên cứu này, 3 thành viên trong 1 gia đình: bệnh nhân (ca chỉ điểm - proband) (II.2) được chẩn đoán đái tháo đường lúc 62 ngày tuổi, em gái bệnh nhân (II.3) được chẩn đoán đái tháo đường lúc 13 tháng tuổi và bố bệnh nhân (I.2) được chẩn đoán đái tháo đường lúc 20 tuổi. Ba bệnh nhân được xác định đột biến gen bằng phương pháp giải trình tự Sanger cho các gen KCNJ11, INS và ABCC8. Ba bệnh nhân có đột biến dị hợp tử trội c.991T>C (p.Ser331Pro) của gen KCNJ11. Bệnh nhân II.2 và II.3 được điều trị bằng sulfonylurea thay thế cho insulin tiêm. Bệnh nhân I.2 điều trị bằng insulin do từ chối chuyển đổi sang sulfonylurea. Như vậy với cùng một kiểu gen, đã gây nên những kiểu hình khác nhau của bệnh đái tháo đường.
#Đái tháo đường #đái tháo đường sơ sinh #KCNJ11 #Kir6.2
Mối liên quan giữa dạng thể chất theo y học cổ truyền với một số chỉ số sinh hoá trên bệnh nhân đái tháo đường type II
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 36 Số 3 - Trang 47-53 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa dạng thể chất theo y học cổ truyền với các chỉ số HbA1c, Cholesterol, Triglycerid trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Đối tượng nghiên cứu: 410 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ĐTĐ type 2 đang được điều trị tại Khoa Nội tiết, Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích. Kết quả: Chỉ số HBA1c trung bình ở các nhóm thể chất từ 7,1-7,9%. Chỉ số Cholesterol trung bình ở các nhóm thể chất từ 4,5 ± 0,9 mmol/l đến 5,1 ± 1,1 mmol/l. Chỉ số Triglycerid trung bình ở các nhóm thể chất từ 2,0 ± 1,0mmol/l đến 2,5 ± 1,6 mmol/l. Kết luận: Sự khác biệt về chỉ số sinh hóa HBA1c, Cholesterol và Triglycerid ở các dạng thể chất khác nhau trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 là không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
#Dạng thể chất #đái tháo đường type 2 #sinh hóa #HBA1c #Cholesterol #Triglycerid
MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HÓA CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN ĐA KHOA PHÍA BẮC VIỆT NAM NĂM 2020-2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số chuyên đề 5 - 2023
Mục tiêu: Mô tả một số chỉ số sinh hóa của người bệnh ĐTĐ type 2 đang điều trị ngoại trú.Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 1586 người bệnh đái tháo đường type 2đang điều trị ngoại trú tại các khoa Khám bệnh của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam; Bệnh viện HữuNghị; Bệnh viện Đa khoa Bắc Quảng Bình; Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh năm 2020-2022.Kết quả: Tỷ lệ người bệnh có Triglyceride máu cao là 40,6%; tỷ lệ này ở người bệnh nam thấp hơnở nữ; tỷ lệ LDL-C cao chung là 39,2%; ở nam cũng thấp hơn ở nữ. Các chỉ số khác với tỷ lệ chungcho cả nhóm đối tượng nghiên cứu là: Glucose máu cao: 67,4%; HbA1c cao: 77,8%; và chưa thấysự khác biệt giữa nam và nữ.
#Đái tháo đường #chỉ số sinh hóa.
Tầm soát nguy cơ đái tháo đường và tiền đái tháo đường ở sinh viên Khoa Xét nghiệm Y học Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng
Tình hình bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) ở Việt Nam đang có xu hướng gia tăng và độ tuổi mắc bệnh ngày càng trẻ hóa [2] trong số đó có đối tượng là sinh viên. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu tầm sóat nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ và tiền đái tháo đường (TĐTĐ) ở sinh viên khoa Xét Nghiệm Y Học (XNYH) trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng (ĐH-QTHB) năm học 2017-2018 và đánh giá mối tương quan giữa chỉ số BMI với nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ và TĐTĐ. Đề tài tiến hành khảo sát trên 205 sinh viên lớp Đại học chính quy ở độ tuổi từ 20 đến 35 tình nguyện tham gia. Nồng độ glucose huyết lúc đói (FPG) được định lượng trên máy HumaLyzer 2000 sử dụng thuốc thử của hãng AGAPPE. Các phép toán thống kê y học được tính bằng phần mềm Medcalc version 13.1.Kết quả: Tỷ lệ sinh viên mắc ĐTĐ chỉ chiếm thiểu số là 1,0%, tuy nhiên tỷ lệ sinh viên có giá trị FPG thuộc nhóm TĐTĐ khá cao chiếm 39,5%, không có sự tương quan giữa chỉ số FPG với các tham số sinh học (BMI, giới tính và nhóm tuổi từ 20 đến 35). Kết luận: Cảnh báo về khả năng mắc ĐTĐ ở đối tượng sinh viên rất cần được quan tâm và nhấn mạnh thực trạng ĐTĐ đang có xu hướng trẻ hóa [2], việc sử dụng các tham số sinh học trên để chẩn đoán ĐTĐ có ý nghĩa thống kê không cao.
#Đái tháo đường #đường huyết lúc đói #chỉ số BMI
Tổng số: 10   
  • 1